Sự trỗi dậy của châu Âu Lịch_sử_thế_giới

Bối cảnh sự tiến bộ của châu Âu

Bài chi tiết: Lịch sử châu Âu
Phát minh in báo kiểu di chuyển được năm 1450 tại Đức được coi là số #1 trong 100 Sự kiện vĩ đại nhất của Thiên niên kỷ do tạp chí LIFE bình chọn. Theo một số ước tính, chưa tới 50 năm sau khi cuốn Kinh thánh đầu tiên được in năm 1455, hơn chín triệu cuốn sách đã được in.

Các đế chế nông nghiệp ban đầu bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi môi trường của họ. Sản lượng còn thấp và các thảm hoạ thiên nhiên thường là nguyên nhân chính tác động vào vòng xoay thịnh vượng rồi suy tàn gây nên sự trỗi dậy và sụp đổ của chúng. Nhưng tới năm 1000, đã có một sự thay đổi về chất trong lịch sử thế giới. Tiến bộ kỹ thuật và sự thịnh vượng được thương mại thúc đẩy dần ngày càng có ảnh hưởng lớn hơn. Những thay đổi đó thường xảy ra ở những vùng có sản lượng nông nghiệp cao nhất: Trung Quốc, Ấn Độ và các khu vực trong thế giới Hồi giáo.

Trung Quốc có những người nông dân tự do không còn bị phụ thuộc, họ có thể bán hoa lợi và tham gia hăng hái vào thị trường. Nông nghiệp có sản lượng cao. Nhưng, sau những cuộc tấn công dữ đội đầu tiên của người Nữ Chân, những gì sót lại của Vương triều nhà Tống đã bị người Mông Cổ chinh phục năm 1279.

Bên ngoài, cuộc Phục hưng của châu Âu (bắt đầu vào thế kỷ XIV). Nó đã mang lại một nền văn hoá mang nhiều tính tò mò và sau cùng dẫn tới chủ nghĩa nhân đạo, cách mạng khoa học, và cuối cùng là sự chuyển đổi vị đại của cách mạng công nghiệp. Tuy nhiên, cách mạng khoa học ở thế kỷ XVII không gây ảnh hưởng lập tức tới công nghệ. Chỉ ở nửa sau của thế kỷ XIX những tiến bộ khoa học mới được áp dụng cho các phát minh thực tiễn. Những sự tiến bộ của châu Âu được phát triển vào giữa thế kỷ XVIII gồm cả hai: một nền văn hoá thương mại và sự giàu có nhờ thương mại ở Đại Tây Dương.

Một số ý kiến được đưa ra để giải thích tại sao, từ 1750 trở đi, châu Âu trỗi dậy và vượt qua các nền văn minh khác, trở thành nơi phát sinh cách mạng công nghiệp, và thống trị phần còn lại của thế giới. Max Weber cho rằng nó nhờ vào một tác dụng về mặt đạo đức của Tin lành (Protestant work ethic) đã thúc đẩy những người châu Âu làm việc hăng hái hơn và lâu dài hơn so với những thế hệ trước. Một giải thích kinh tế - xã hội khác lại lưu ý tới nhân khẩu học: châu Âu với giới tăng lữ sống độc lập, với sự di cư thuộc địa, những trung tâm thành thị có tỷ suất tử cao, những cuộc chiến triền miên, và có độ tuổi kết hôn muộn nên gây trở ngại lớn tới sự tăng trưởng dân số của nó so với các nền văn hoá châu Á. Sự thiếu hụt lao động đồng nghĩa với việc những thặng dư được đầu tư vào tiến bộ kỹ thuật nhằm tiết kiệm nhân công như các bánh xe và các cối xay, các xa quay tơ và khung cửi chạy bằng nước, động cơ hơi nước, và vận chuyển bằng tàu thuỷ chứ không mất chi phí vào việc mở rộng đơn giản quy mô dân số. Nhiều người cho rằng các thể chế của châu Âu cũng có tính ưu việt, rằng những quyền sở hữu và những nền kinh tế thị trường tự do ở châu Âu mạnh mẽ hơn ở bất kỷ nơi nào khác trên thế giới.

Địa lý châu Âu cũng có thể đóng một vai trò quan trọng. Trung Đông, Ấn Độ và Trung Quốc tất cả đều bị bao quanh bởi các dãy núi, nhưng một khi vượt qua được các biên giới bên ngoài đó thì đất đai lại khá phẳng. Trái lại, dãy Alps, Pyrenees, và các rặng núi khác chạy xuyên suốt châu Âu, và lục địa bị phân chia bởi nhiều biển. Điều này làm cho châu Âu có được sự bảo vệ khỏi mối nguy hiểm từ những kẻ xâm lược vùng Trung Á. Ở thời kỳ trước khi có súng cầm tay, tất cả vùng Âu Á đều bị đe doạ bởi những kỵ sĩ vùng thảo nguyên Trung Á. Những dân tộc du cư đó có ưu thế về quân sự so với các nước nông nghiệp ở vùng rìa lục địa và nếu họ tràn vào bên trong các đồng bằng phía bắc Ấn Độ hay những vùng châu thổ Trung Quốc thì không có cách nào để ngăn cản được họ. Những cuộc xâm lấn đó thường gây tàn phá và huỷ hoại. Thời đại hoàng kim của Hồi giáo đã chấm dứt khi quân Mông Cổ cướp phá kinh thành Baghdad năm 1258, và cả Ấn Độ cùng Trung Quốc cũng là mục tiêu của các cuộc xâm lược từ Đế quốc Mông Cổ hùng mạnh. châu Âu, đặc biệt là tây Âu cách khá xa khỏi mối đe doạ đó.

Địa lý cũng góp phần vào những khác biệt địa chính trị quan trọng. Trong đa phần lịch sử của mình Trung Quốc, Ấn Độ và Trung Đông đều thống nhất dưới một quyền lực cai trị duy nhất và nó mở rộng cho đến khi chạm tới những vùng núi non và sa mạc. Vào năm 1600, Đế quốc Ottoman kiểm soát hầu như toàn bộ Trung Đông, nhà Minh cai quản Trung Quốc, và Đế quốc Mughal từng cai trị toàn bộ Ấn Độ. Trái lại, châu Âu hầu như luôn bị chia rẽ trong số các nước chiến quốc. Các đế quốc "toàn Âu", ngoại trừ Đế quốc La Mã, sớm trước đó, đều có khuynh hướng suy sụp sớm ngay sau khi họ nổi lên. Nghịch lý, sự cạnh tranh dữ dội giữa các nước đối nghịch thường được miêu tả như là một nguồn gốc của sự thành công của châu Âu. Ở những vùng khác, sự ổn định thường được ưu tiên hơn so với sự phát triển. Ví dụ, sự nổi lên của Trung Quốc với tư cách cường quốc trên biển đã bị Hai jin nhà Minh ngăn cản. Ở châu Âu sự cấm đoán như vậy là không thể xảy ra vì có sự bất hoà, nếu bất kỳ một nước nào áp đặt lệnh cấm đó, nó sẽ nhanh chóng bị bỏ lại sau so với những kẻ cạnh tranh với nó.

Một yếu tố địa lý quan trọng khác góp phần vào sự trỗi dậy của châu Âu là Địa Trung Hải, trong hàng nghìn năm, nó hoạt động như một siêu xa lộ trên biển tạo thuận lợi cho những trao đổi hàng hoá, con người, ý tưởng và những phát minh.

Một Tây Âu thực dân và một Đông Âu hùng mạnh

Bài chi tiết: Thời đại khám phá

Vào thế kỷ mười bốn, thời kỳ Phục hưng đã bắt đầu ở châu Âu. Một số học giả hiện nay đã đặt ra câu hỏi về việc thời kỳ nở rộ về nghệ thuật và chủ nghĩa nhân đạo này có ảnh hưởng thế nào đối với khoa học, nhưng quả thực thời kỳ này đã chứng kiến một sự hợp nhất quan trọng giữa kiến thức Ả rập và châu Âu. Một trong những phát triển có tầm quan trọng nhất là thuyền buồm, nó tích hợp buồm tam giác của người Ả Rập với buồm vuông của người châu Âu để tạo ra những chiếc tàu đầu tiên có thể chạy một cách an toàn trên Đại Tây Dương. Cùng với những phát triển quan trọng trong nghề hàng hải, kỹ thuật này đã cho phép Christopher Columbus năm 1492 đi ngang qua Đại tây dương và nối từ Phi-Âu Á đến Châu Mỹ.

Việc này có những ảnh hưởng to lớn tới cả hai lục địa, là một trong những vấn đề ngoài phạm vi sử học nổi tiếng nhất. Người châu Âu đem theo họ bệnh tật mà người châu Mỹ chưa từng bao giờ biết tới, và một số lượng không chắc chắn, có lẽ hơn 90% người thổ dân châu Mỹ đã bị giết hại trong một lô những vụ lan truyền bệnh dịch kinh khủng. Người châu Âu cũng có những tiến bộ khoa học về ngựa, sắt thép và súng cho phép họ có khả năng vượt trội so với các Đế chế của người AztecInca, cũng như các nền văn hoá khác ở Bắc Mỹ.

Vàng và các nguồn tài nguyên từ châu Mỹ bắt đầu bị cướp đoạt khỏi tay những người châu Mỹ và được chất lên thuyền đem về châu Âu, cùng lúc đó số lượng lớn những người châu Âu thực dân bắt đầu di cư về phía tây. Để đáp ứng nh cầu lớn về lao động ở các thuộc địa mới, sự xuất khẩu ồ ạt những người châu Phi làm nô lệ bắt đầu. Ngay sau đó nhiều người châu Mỹ bắt đầu có đặc điểm di truyền từ các nô lệ. Ở Tây Phi, một loạt những quốc gia giàu có đã phát triển dọc theo Bờ biển nô lệ, bắt đầu trở nên thịnh vượng từ khai thác và bóc lột những người châu Phi nô lệ.

Chiếc Santa Maria bỏ neo, vẽ năm 1628 bởi Andries van Eertvelt, thể hiện chiếc tàu buồm vuông nổi tiếng của Christopher Columbus.

Sự mở rộng hàng hải của châu Âu, nhờ vào vị trí địa lý của họ, phần lớn là nhờ ở các nước lục địa gần bờ biển Đại tây dương: Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Anh Quốc, Pháp, Hà Lan. Đế quốc Bồ Đào NhaĐế quốc Tây Ban Nha ban đầu là những kẻ chinh phục lớn mạnh nhất và có ảnh hưởng lớn nhất, nhưng chỉ một thời gian ngắn sau nó đã được chuyển giao cho Anh Quốc, PhápHà Lan những nước này thống trị Đại Tây Dương. Trong một loạt những cuộc chiến, diễn ra vào thế kỷ XVIIthế kỷ XVIII, lên tới cực điểm với những cuộc chiến thời Napoleon, Anh Quốc nổi lên là siêu cường đầu tiên của thế giới. Nó là một đế quốc trải dài khắp quả đất, kiểm soát, ở lúc cực điểm, gần một phần tư bề mặt lục địa thế giới, trên đó "Mặt trời không bao giờ lặn".

Lúc ấy, những cuộc viễn du của Đô đốc Trịnh Hòa bị nhà Minh, triều đình được thành lập sau khi đánh đuổi được người Mông Cổ ở Trung Quốc, cấm đoán. Một cuộc cách mạng thương mại Trung Quốc, thỉnh thoảng được miêu tả như là giai đoạn "chủ nghĩa tư bản sơ khai," cũng sớm chết yểu. Nhà Minh cuối cùng lại rơi vào tay những người Mãn Châu, trở thành nhà Thanh, và đó là một giai đoạn yên tĩnh và thịnh vương, nhưng càng ngày càng trở nên một con mồi đối với sự xâm lấn từ phương tây.

Ngay sau khi xâm chiếm châu Mỹ, người châu Âu đã sử dụng tiến bộ kỹ thuật của mình để chinh phục các dân tộc ở châu Á. Đầu thế kỷ XIX, nước Anh chiếm quyền kiểm soát tiểu lục địa Ấn Độ, Ai CậpBán đảo Malaysia; Người Pháp chiếm Đông Dương; trong khi người Hà Lan chiếm Đông Ấn. Người Anh cũng chiếm nhiều vùng khi ấy chỉ có những bộ tộc ở trình độ văn minh thời kỳ đồ đá mới, gồm Australia, New ZealandNam Phi, và, giống như trường hợp châu Mỹ, rất nhiều kẻ thực dân Anh bắt đầu di cư sang các vùng đó. Vào cuối thế kỷ mười chín, những vùng cuối cùng ở châu Phi còn chưa bị xâm chiếm bị các nước mạnh ở châu Âu đem ra chia chác với nhau.

Vào các thế kỷ XVIII và XIX, các liệt cường Đông Âu phát triển cường thịnh. Trong suốt 149 năm kể từ khi Nga hoàng Aleksei I mất vào năm 1676 cho đến khi Nga hoàng Aleksandr I mất vào năm 1825, Vương triều nhà Romanov đã đưa đất nước từ một cường quốc địa phương non trẻ lên thành một "tên sen đầm của châu Âu" bất khả chiến baị. Trong khi Nga hoàng Aleksei I lên ngôi cùng thập niên với vua Pháp là Louis XIV thì ông chẳng được biết đến mấy tại Hoàng cung Versailles, thì Nga hoàng Aleksandr I đã đánh tan tác quân Pháp mà thẳng tiến vào kinh thành Paris. Nga hoàng Pyotr I (trị vì: 1682 - 1725) và Nữ hoàng Ekaterina II (trị vì: 1762 - 1796) đều được tôn vinh là "Đại Đế", với tài năng phi thường họ đã cống hiến không nhỏ đến sự phát triển cường thịnh của nước Nga. Nước Nga giành thắng lợi trong nhiều cuộc chiến tranh và Đại Công quốc Moskva vươn lên thành một "Đế quốc của toàn dân Nga".[72] Lực lượng Quân đội Nga trở nên hùng cường.[73] Đế quốc Nga cường thịnh đã dẹp tan tác mọi mối đe dọa trước đây từ quân Thổ Nhĩ Kỳ Ottoman và quân Thụy Điển.[74] Danh tiếng của nước Nga vang xa trong cuộc Chiến tranh Bảy năm, dù Nữ hoàng Elizaveta thất bại trong việc xâm lược nước Phổ.[75] Vua nước Phổ là Friedrich II cũng thoát khỏi chính sách bành trướng của nước Nga trong những năm tháng sau đó.[74]

Trong cùng thời gian đó, Vương quốc Phổ nhanh chóng phát triển hùng cường.[76] Nước Phổ trở thành một tấm gương sáng, phản ánh truyền thống châu Âu nhân văn: với một bộ máy hành chính chính phủ hữu hiệu, một chính sách khoan dung tôn giáo và một bộ máy dân sự không tham nhũng.[77] "Hào khí Phổ" trỗi dậy với niềm trung quân, niềm nhiệt huyết với nền quân sự, và niềm tự hào với sự phát triển của nền văn hóa đất nước. Các vua Friedrich I (trị vì: 1688 - 1713) và Friedrich Wilhelm I (trị vì: 1713 - 1740) phát triển đất nước, tham chiến trong các cuộc Chiến tranh Kế vị Tây Ban NhaĐại chiến Bắc Âu, chiếm được những vùng đất quan trọng như StettinTây Pomerania.[78] Vua Friedrich Wilhelm I ra sức xây dựng một lực lượng Quân đội Phổ hùng mạnh.[79] Vào ngày 16 tháng 12 năm 1740, tân vương Friedrich II (được tôn vinh là Friedrich Đại Đế hay Friedrich Độc Đáo) đem 27 nghìn quân chinh phạt được tỉnh Silesia của Đế quốc Áo.[80] Ông tiến hành những cải cách tiến bộ[81], và giữ vững được toàn bộ đất nước trong cuộc Chiến tranh Bảy năm chống cả liên quân Pháp - Áo - Nga - Thụy Điển.[82] Vị vua xuất chúng này được những người đương thời thán phục và các nhà sử học mê say.[80] Sau này, ông còn thiết lập "Liên minh các Vương hầu" thắng lợi, trở thành vị minh chủ của các tiểu quốc Đức trong Đế quốc La Mã Thần thánh.[83]

Thời kỳ này ở châu Âu chứng kiến Thời đại Lý tính dẫn tới cách mạng khoa học, làm thay đổi sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và tạo cơ sở cho cách mạng công nghiệp, một sự chuyển đối căn bản của các nền kinh tế thế giới. Nó bắt đầu ở nước Anh và việc sử dụng những hình thức sản xuất mới như các nhà máy, sản xuất hàng loạt, và cơ giới hoá để sản xuất ra nhiều loại sản phẩm với tốc độ nhanh hơn và tốn ít nhân công hơn các cách thức sản xuất trước đó. Thời đại của lý trí cũng dẫn tới sự khởi đầu của dân chủ như chúng ta biết hiện nay, trong những cuộc cách mạng ở Mỹ và ở Pháp vào cuối thế kỷ XVIII. Dân chủ sẽ phát triển để có một ảnh hưởng sâu rộng lên các sự kiện thế giới và chất lượng cuộc sống. Trong thời cách mạng công nghiệp, kinh tế thế giới nhanh chóng dựa trên than, cũng như những hình thức giao thông mới, như đường sắttàu hơi nước, làm cho thế giới trở nên nhỏ hơn. Trong lúc ấy, ô nhiễm công nghiệp và những tổn hại đối với môi trường thiên nhiên, đã hiện diện từ khi khám phá ra lửa và sự bắt đầu của nền văn minh, đã được đẩy nhanh gấp hàng chục lần.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_thế_giới http://www.ifi.unicamp.br/~ghtc/sources/articles.h... http://print.google.com/print?id=TbiVDVY6mRYC&pg=8... http://vlib.iue.it/history/index.html http://www.actionbioscience.org/evolution/johanson... http://www.indianoceanhistory.org/ http://books.google.com.vn/books?id=0Rh2SSIhT6IC&p... http://books.google.com.vn/books?id=4LPODzLgDVEC&p... http://books.google.com.vn/books?id=jrVW9W9eiYMC&p... http://books.google.com.vn/books?id=yFocMaM49SgC&p... https://blogs.wsj.com/economics/2009/04/22/whats-a...